Việc chế tạo dreadnought Dreadnought

Phát triển dreadnought trở thành một động thái chạy đua vũ trang thiết giáp hạm toàn cầu vốn đã bắt đầu từ những năm 1890. Hải quân Hoàng gia Anh đang có được ưu thế đáng kể về số lượng thiết giáp hạm tiền-dreadnought, nhưng chỉ dẫn trước một dreadnought duy nhất.[86] Tình hình này, cùng với việc hạ thủy chiếc HMS Dreadnought, làm nảy sinh các ý kiến phê phán rằng Anh Quốc đã ném bỏ đi một lợi thế chiến lược.[87] Cùng lúc đó, đa số các đối thủ hải quân của Anh đang dự định, hay thậm chí đang chế tạo, tàu chiến có cỡ pháo lớn đồng nhất. Cả hải quân Nhật lẫn Hoa Kỳ đã đặt hàng những chiếc "toàn súng lớn" vào năm 1904-1905, với các lớp Satsuma (Nhật Bản) và South Carolina (Hoa Kỳ). Ngay từ những năm 1890, Hoàng đế Đức Wilhelm II từng chủ trương một tàu chiến nhanh chỉ trang bị pháo hạng nặng. Bằng cách đi trước trong việc chế tạo dreadnought, Anh Quốc muốn đảm bảo trên mặt biển của họ tiếp tục được duy trì.[88]

Cuộc đua thiết giáp hạm lại nhanh chóng tăng tốc một lần nữa, đặt một gánh nặng khổng lồ về tài chính lên các chính phủ liên quan. Những chiếc dreadnought đầu tiên không quá đắt hơn so với những chiếc tiền-dreadnought cuối cùng, nhưng chi phí cho mỗi con tàu tiếp tục gia tăng sau đó.[A 9] Cho dù chi phí chế tạo cao, song các thiết giáp hạm hiện đại là một thành phần cốt yếu của sức mạnh hải quân. Mỗi thiết giáp hạm là một dấu hiệu của sức mạnh và uy tín của quốc gia, theo một cách tương tự như vũ khí hạt nhân ngày nay.[89] Đức, Pháp, Nga, Ý, Nhật Bản và Áo, tất cả đều bắt đầu những chương trình chế tạo dreadnought, còn những thế lực hải quân hạng hai bao gồm Đế quốc Ottoman, Argentina, Brasil và Chile đưa vào hoạt động những dreadnought được chế tạo bởi các xưởng đóng tàu Anh và Mỹ.[90]

Cuộc chạy đua vũ trang Anh-Đức

Vua George V (bên trái) cùng Đô đốc Callaghan thị sát chiếc thiết giáp hạm HMS Neptune.

Việc chế tạo chiếc Dreadnought lại trùng hợp với sự gia tăng căng thẳng trong mối quan hệ giữa Anh Quốc và Đức. Đức bắt đầu chế tạo một hạm đội chiến trận lớn vào những năm 1890. Đây là một phần của chính sách có chủ tâm thách thức ưu thế thống trị hải quân của Anh. Cùng với việc ký kết Thỏa thuận Thân thiện giữa Anh và Pháp vào tháng 4 năm 1904, điều ngày càng trở nên rõ ràng là đối thủ hải quân chủ yếu của Anh sẽ là Đức, vốn đang xây dựng một hạm đội lớn hiện đại theo các đạo luật của Tirpitz. Sự cạnh tranh này đã thúc đẩy hình thành nên hai hạm đội dreadnought lớn nhất thế giới vào giai đoạn trước chiến tranh.[91]

Phản ứng đầu tiên của Đức đối với Dreadnought là lớp Nassau, đặt lườn vào năm 1907. Tiếp theo là lớp Helgoland vào năm 1909. Cùng với hai chiếc tàu chiến-tuần dương, một kiểu tàu chiến mà Đức ít ngưỡng mộ hơn so với Fisher, nhưng lại được phép chế tạo vì được xem như một tàu tuần dương bọc thép thay vì một tàu chiến chủ lực; chúng cho phép Đức có tổng cộng mười tàu chiến chủ lực đã hoặc đang chế tạo cho đến năm 1909. Mặc dù các tàu chiến Anh hơi nhanh và mạnh hơn so với đối thủ Đức, nhưng một tỉ lệ lợi thế chỉ có 12:10 quả là đáng thất vọng vì thấp hơn nhiều so với tỉ lệ 2:1 mà Hải quân Hoàng gia muốn duy trì.[92]

Vào năm 1909, Quốc hội Anh chấp thuận chế tạo bốn tàu chiến chủ lực bổ sung, giữ hy vọng là Đức sẽ sẵn lòng thương lượng một hiệp ước giới hạn số lượng thiết giáp hạm. Nếu không tìm được giải pháp như vậy, sẽ có thêm bốn chiếc nữa được đặt lườn vào năm 1910. Ngay cả một giải pháp thỏa hiệp như vậy, nhưng đặt trong bối cảnh những cải cách xã hội đang diễn ra, dẫn tới một sự tăng thuế nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách do việc đóng tàu đã đủ để kích động một cuộc khủng hoảng hiến pháp cho Anh Quốc trong các năm 1909-1910. Vào năm 1910, kế hoạch đóng tám tàu của Anh được xúc tiến, bao gồm bốn chiếc thuộc lớp Orion, và được bổ sung bởi các tàu chiến-tuần dương được Australia và New Zealand đặt mua. Cùng khoảng thời gian đó, Đức chỉ đặt lườn ba chiếc, khiến Anh Quốc có một ưu thế 22:13. Quyết tâm của Anh thể hiện qua chương trình chế tạo đã khiến Đức phải tìm kiếm một sự kết thúc cho cuộc chạy đua vũ trang bằng con đường thương lượng. Dù mục tiêu mới của Bộ Hải quân Anh nhằm đạt 60% ưu thế đối với Đức cũng khá suýt soát với mục đích của Tirpitz cắt giảm ưu thế của Anh còn 50%, nhưng các cuộc đàm phán lại bị sa lầy trong câu hỏi liệu phạm vi của hiệp ước có bao gồm các tàu chiến-tuần dương của Khối Thịnh Vượng Chung hay không, cũng như là những vấn đề không liên quan đến hải quân, như việc Đức đòi hỏi phải xác nhận chủ quyền của họ trên vùng Alsace-Lorraine.[93]

Cuộc chạy đua vũ trang dreadnought gia tăng trở lại trong năm 19101911, khi Đức đặt lườn bốn tàu chiến chủ lực mỗi năm trong khi phía Anh là năm chiếc. Căng thẳng lên đến tột điểm vào lúc thông qua Đạo luật Hải quân của Đức vào năm 1912. Luật này nêu rõ việc xây dựng một hạm đội Đế quốc Đức bao gồm 33 thiết giáp hạm và tàu chiến-tuần dương, vượt trội hơn Hải quân Hoàng gia tại vùng biển nhà. Tình hình thêm tệ hại cho người Anh, khi Hải quân Đế quốc Áo-Hung bắt đầu chế tạo bốn thiết giáp hạm, còn Ý đã có bốn và đang chế tạo thêm hai. Những nguy cơ này khiến Hải quân Hoàng gia không thể tiếp tục đảm bảo hoàn toàn cho những lợi ích sống còn của Đế quốc Anh. Anh Quốc đối mặt với sự lựa chọn hoặc phải chế tạo thêm nhiều thiết giáp hạm, hoặc rút lui khỏi Địa Trung Hải, hoặc đi tìm một liên minh quân sự với Pháp. Đóng thêm tàu là một sự tốn kém không thể chấp nhận được vào thời điểm mà ngân sách dành cho phúc lợi xã hội đang được đòi hỏi. Rút lui khỏi Địa Trung Hải có nghĩa là một mất mát lớn về ảnh hưởng, làm yếu đi chính sách ngoại giao của Anh tại khu vực này và làm lung lay sự ổn định của Đế chế Anh. Lựa chọn duy nhất khả thi, cũng là giải pháp mà Bộ trưởng Hải quân Winston Churchill đề nghị, là phá vỡ truyền thống về chính sách của quá khứ để có một sự dàn xếp về quân sự với Pháp. Theo đó, Pháp sẽ đảm nhận trách nhiệm ngăn chặn Ý và Áo-Hung tại Địa Trung Hải, đổi lấy việc Anh Quốc sẽ đảm bảo an ninh cho bờ biển phía Bắc của Pháp. Cho dù có một số phản đối của các chính trị gia Anh, Hải quân Hoàng gia bắt đầu tổ chức lại trên cơ sở này vào năm 1912.[94]

Mặc dù đã gây ra những hệ quả chiến lược quan trọng, Đạo luật Hải quân 1912 chỉ có ít ảnh hưởng lên tương quan giữa các lực lượng thiết giáp hạm. Anh Quốc đã đáp trả bằng cách đặt lườn thêm mười chiếc siêu-dreadnought mới trong các tài khóa 1912 và 1913, những chiếc thuộc lớp Queen ElizabethRevenge với những cải tiến lớn về vũ khí, tốc độ và sự bảo vệ; trong khi Đức chỉ đặt lườn năm chiếc do phải tập trung các nguồn lực cho lục quân.[95]

Hoa Kỳ

USS New York (BB-34) đang chạy hết tốc độ vào năm 1915.

Lớp South Carolina của Hoa Kỳ là những tàu chiến "toàn súng lớn" đầu tiên được hoàn tất bởi một trong những đối thủ của Anh Quốc. Kế hoạch cho kiểu thiết giáp hạm mới này đã được bắt đầu trước khi Dreadnought được hạ thủy. Trong khi có những suy đoán là thiết kế của Hải quân Mỹ bị ảnh hưởng bởi những mối quan hệ không chính thức với các sĩ quan Hải quân Hoàng gia đồng tình,[96] các tàu chiến Mỹ lại rất khác biệt.

Quốc hội Mỹ cho phép Hải quân đóng hai thiết giáp hạm mới, nhưng chỉ với tải trọng 16.000 tấn hay nhỏ hơn. Kết quả là lớp South Carolina được chế tạo với những tính năng nhỏ hơn nhiều so với Dreadnought. Để sử dụng tốt nhất trọng lượng dành cho vũ khí, tất cả tám khẩu pháo 305 mm (12 inch) đều được bố trí dọc theo trục giữa, trên các vị trí bắn thượng tầng trước và sau. Cách sắp xếp này cho phép một số lượng pháo bắn qua mạn tàu tương đương với Dreadnought cho dù có tổng số pháo trang bị ít hơn; và đây là giải pháp bố trí vũ khí hiệu quả nhất, là điềm báo trước cho cấu hình tiêu chuẩn trên các thế hệ thiết giáp hạm tương lai. Tiết kiệm chính về tải trọng so với Dreadnought là ở hệ thống động lực; South Carolina giữ lại kiểu động cơ hơi nước ba buồng bành trướng đặt dọc, nên chỉ đạt được tốc độ tối đa 34 km/h (18,5 knot) so với 41,6 km/h (22,5 knot) của Dreadnought.[97] Chính vì lý do này mà một số tác giả đã mô tả lớp Delaware sau này mới là những thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thực sự của Hoa Kỳ.[75][98] Chỉ vài năm sau khi được đưa vào hoạt động, lớp South Carolina đã không thể hoạt động trong đội hình chiến thuật chung với các dreadnought mới hơn do tốc độ chậm của chúng, và bị buộc phải hoạt động chung với các thiết giáp hạm tiền-dreadnought cũ hơn.[99][100]

Hai chiếc thuộc lớp Delaware là những thiết giáp hạm Mỹ đầu tiên bắt kịp về tốc độ so với các dreadnought Anh Quốc. Quyết định áp dụng kiểu tàu tải trọng 20.500 tấn trang bị 10 pháo thay vì 24.000 tấn và 12 pháo cho lớp tàu này bị phê phán, vì dàn pháo hạng hai bị ướt khi đi biển và mũi tàu thấp so với mực nước. Thiết kế 12 pháo thay thế cũng có nhiều bất lợi; hai khẩu pháo bổ sung và ụ pháo thấp có những "chi phí ngầm", hai tháp pháo cánh được dự tính trang bị sẽ làm yếu đi sàn tàu bên trên, hầu như không thể được bảo vệ thỏa đáng chống lại các cuộc tấn công dưới nước, và buộc phải bố trí các hầm đạn quá gần hông lườn tàu.[75][101]

Hải quân Mỹ tiếp tục phát triển hạm đội chiến trận của họ, đặt lườn thêm hai chiếc mỗi năm trong hầu hết những năm tiếp theo cho đến năm 1920. Mỹ tiếp tục sử dụng động cơ chuyển động qua lại thay vì động cơ turbine cho đến lớp Nevada, đặt lườn vào năm 1912. Điều này một phần phản ảnh sự tiếp cận thận trọng trong chương trình chế tạo thiết giáp hạm, và một phần do sự lựa chọn ưu thế tầm xa hoạt động hơn là ưu thế tốc độ tối đa.[102]

Nhật Bản

Thiết giáp hạm Nhật Bản Settsu.

Sau chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật năm 1904-1905, người Nhật bắt đầu quan tâm đến khả năng xảy ra một cuộc xung đột với Hoa Kỳ. Nhà lý luận Sato Tetsutaro đã phát triển một đường lối cho rằng Nhật Bản phải có một hạm đội chiến trận với kích cỡ ít nhất bằng 70% so với của Hoa Kỳ. Có như vậy, Nhật Bản mới có thể chiến thắng trong hai trận chiến quyết định, trận thứ nhất vào đầu cuộc chiến chống lại Hạm đội Thái Bình Dương, và trận thứ hai chống lại Hạm đội Đại Tây Dương vốn sẽ không tránh khỏi được gửi đến tăng cường.[103]

Ưu tiên ban đầu của Nhật Bản là tái trang bị những chiếc tiền-dreadnought mà họ đã chiếm được của Nga và hoàn tất Satsuma và Aki. Lớp Satsuma thậm chí còn được thiết kế trước Dreadnought, nhưng sự thiếu hụt tài chính do ảnh hưởng của cuộc Chiến tranh Nga-Nhật đã trì hoãn việc hoàn tất cũng như khiến nó phải mang một dàn pháo chính hỗn hợp, nên nó được gọi là một "bán-dreadnought". Chúng được tiếp nối bởi một kiểu Aki được cải tiến: những chiếc KawachiSettsu. Hai chiếc này được đặt lườn vào năm 1909 và hoàn tất vào năm 1912, được trang bị mười hai pháo 305 mm (12 inch), nhưng chúng lại là hai kiểu pháo khác nhau với hai chiều dài nòng pháo riêng biệt, khiến cho chúng gặp khó khăn trong việc kiểm soát hỏa lực ở tầm xa.[104]

Các nước khác

Thiết giáp hạm Pháp Provence, một chiếc thuộc lớp Bretagne.

So với các cường quốc hải quân khác, Pháp chậm trễ trong việc bắt đầu chế tạo dreadnought, thay vì vậy họ đã tập trung vào việc hoàn tất lớp tiền-dreadnought Danton theo kế hoạch, đặt lườn năm chiếc trong các năm 1907-1908. Mãi đến tháng 9 năm 1910, chiếc đầu tiên của lớp Courbet mới được đặt lườn, đưa Pháp trở thành quốc gia thứ mười một tham gia cuộc chạy đua dreadnought.[105] Trong tài liệu "Navy Estimates năm 1911", Paul Bénazet quả quyết rằng trong giai đoạn từ năm 1896 đến năm 1911, Pháp đã bị tụt dốc từ vị trí hải quân lớn thứ hai toàn thế giới xuống vị trí thứ tư; ông quy kết điều này cho những vấn đề trong quy trình bảo trì thường quy và sự sao lãng.[106] Tuy nhiên, nhờ liên minh thân thiện hơn với Anh Quốc được mô tả bên trên, Hải quân Pháp vẫn có số lượng đảm bảo.[105]

Cuniberti từng kêu gọi trang bị cho Hải quân Ý những chiếc thiết giáp hạm toàn súng lớn từ rất lâu trước khi Dreadnought được hạ thủy, nhưng phải mãi đến năm 1909 Ý mới đặt lườn một chiếc cho riêng mình. Việc chế tạo chiếc Dante Alighieri được thúc đẩy bởi những tin đồn về kế hoạch chế tạo thiết giáp hạm của Đế quốc Áo-Hung. Thêm năm chiếc dreadnought thuộc các lớp CavourAndrea Doria tiếp nối khi Ý muốn duy trì một ưu thế vượt trội hơn so với Đế quốc Áo-Hung. Những chiếc này tiếp tục là hạt nhân sức mạnh của Hải quân Ý cho đến giai đoạn Thế Chiến II. Lớp Caracciolo tiếp theo bị hủy bỏ sau khi Thế Chiến I bùng nổ.[107]

Vào tháng 1 năm 1909, các Đô đốc Áo-Hung phát hành một tài liệu kêu gọi xây dựng một hạm đội bao gồm bốn chiếc dreadnought. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng hiến pháp vào năm 1909-1910 khiến mọi việc chế tạo đều không thể thực hiện. Dù vậy, có suy đoán rằng hai chiếc dreadnought đã được đặt lườn, và sau đó thêm hai chiếc nữa được chấp thuận. Tiếp sau những chiếc thuộc lớp Tegetthoff này là bốn chiếc nữa, nhưng chúng bị hủy bỏ khi Thế Chiến I nổ ra.[108]

Vào tháng 6 năm 1909, Hải quân Đế quốc Nga bắt đầu chế tạo bốn chiếc dreadnought lớp Gangut cho Hạm đội Baltic, rồi đến tháng 11 năm 1911 thêm ba chiếc thuộc lớp Imperatritsa Mariya được đặt lườn cho Hạm đội Biển Đen. Trong tổng số bảy chiếc, chỉ có một chiếc hoàn tất trong vòng bốn năm kể từ khi đặt lườn, còn những chiếc Gangut đã "lạc hậu và bị qua mặt" khi đưa vào hoạt động.[109][110] Những bài học trong trận Tsushima và ảnh hưởng của Cuniberti khiến chúng khá gần gũi với phiên bản chậm của những tàu chiến-tuần dương của Fisher hơn là với Dreadnought, và chúng tỏ ra rất kém cỏi do cỡ pháo nhỏ và lớp giáp mỏng so với các dreadnought đương thời.[109][111]

Tây Ban Nha đưa vào hoạt động ba chiếc thuộc lớp España, chiếc đầu tiên được đặt lườn vào năm 1909. Ba chiếc này là những dreadnought nhỏ nhất từng được chế tạo. Dù được đóng ngay tại Tây Ban Nha, nhưung việc chế tạo phải dựa vào sự giúp đỡ của Anh; ví dụ như việc chế tạo chiếc thứ ba trong lớp Jaime I phải mất chín năm từ lúc đặt lườn cho đến lúc hoàn thành, do không nhận được những vật liệu chiến lược cần thiết từ Anh, đặc biệt là vũ khí.[112][113]

Thiết giáp hạm Brazil Minas Geraes ngoài biển vào đầu năm 1910, không lâu sau khi được đưa vào hoạt động

Brasil là nước thứ ba bắt đầu chế tạo dreadnought.[96] Cho dù ba chiếc tiền-dreadnought đã được đặt hàng từ Anh, việc chế tạo được tạm ngưng để có được thiết kế cải tiến hơn.[114] Kế hoạch mới đưa ra một dreadnought trang bị một dàn pháo chính mạnh chưa từng có trên mọi thiết giáp hạm vào thời đó, với mười hai khẩu pháo 305 mm (12 inch)/45 caliber.[115] Minas Geraes được đặt lườn bởi hãng Armstrong tại Elswick vào ngày 17 tháng 4 năm 1907, và chiếc chị em với nó São Paulo được tiếp nối chỉ mười ba ngày sau đó bởi hãng Vickers tại Barrow.[116] Cho dù nhiều tạp chí hải quân tại châu Âu và Hoa Kỳ suy đoán những con tàu này chỉ là sự ủy nhiệm của một trong các cường quốc hải quân, và sẽ được trao lại cho họ một khi được hoàn tất, song cả hai đã được đưa vào hoạt động trong Hải quân Brasil vào năm 1910.[115][116] Hải quân Mỹ chỉ đưa vào hoạt động chiếc đầu tiên của lớp South Carolina là Michigan vào ngày 4 tháng 1, chỉ một ngày trước chiếc Minas Geraes.[5][117][118] Những chiếc dreadnought của Brasil đã phát động một cuộc chạy đua vũ trang quy mô nhỏ tại Nam Mỹ, khi Argentina đặt hàng hai chiếc từ Mỹ, còn Argentina hai chiếc từ Anh. ARA RivadaviaARA Moreno của Argentina có dàn pháo chính tương đương với những đối thủ Brasil. Tuy nhiên, cả hai chiếc của Chile đều bị Anh mua lại vào lúc nổ ra Thế Chiến I, cho dù sau cùng có một chiếc, Almirante Latorre, được trao trả lại cho Chính phủ Chile.[119]

Hà Lan lên kế hoạch thay thế hạm đội tiền-dreadnought phòng thủ duyên hải của họ bằng một hạm đội hiện đại với ít nhất năm chiếc dreadnoughtvào năm 1912. Song, những thay đổi lặt vặt thường xuyên trong thiết kế cùng với những quyết định chính trị chậm trễ đã khiến cho không có con tàu nào được đặt hàng, và khi mà Chiến tranh Thế giới thứ nhất bùng nổ vào mùa Hè năm 1914, thì kế hoạch hạm đội nhiều tham vọng của Hà Lan chấm dứt.[120][121]

Thổ Nhĩ Kỳ đặt hàng các xưởng đóng tàu Anh chế tạo cho mình hai chiếc dreadnought, nhưng bị Anh trưng dụng khi Thế Chiến I nổ ra, nhằm tăng cường cho Hải quân Hoàng gia và ngăn không cho chúng rơi vào tay đối phương. Những chiếc Reshadiye và Sultan Osman I bị đổi tên thành HMS ErinAgincourt. Trong khi đó, Đức lại tặng cho Thổ Nhĩ Kỳ hai tàu chiến: tàu chiến-tuần dương Goeben và tàu tuần dương Breslau. Đây là một yếu tố quan trọng góp phần vào quyết định của Đế quốc Ottoman tham chiến ở phe Liên minh Trung tâm.[122]

Hy Lạp đặt hàng Đức chế tạo cho mình một chiếc dreadnought, nhưng công việc bị ngưng lại khi chiến tranh nổ ra. Dàn pháo chính cho con tàu Hy Lạp được đặt hàng tại Hoa Kỳ, và các khẩu pháo này sau đó được trang bị cho một lớp monitor của Anh. Thay vào đó, năm 1914, Hy Lạp mua lại hai chiếc tiền-dreadnought cũ của Hải quân Mỹ, đặt lại tên là KilkisLimnos khi phục vụ trong Hải quân Hoàng gia Hy Lạp.[123]

Siêu-dreadnought

Những chiếc trong lớp Orion đang di chuyển theo đội hình hàng dọc.

Trong vòng năm năm sau khi chiếc Dreadnought được đưa vào hoạt động, một thế hệ mới của những chiếc "siêu-dreadnought" mạnh mẽ hơn được chế tạo. Sự xuất hiện của siêu-dreadnought thường được gắn liền với lớp Orion của Anh, và điều khiến cho chúng được gọi là "siêu" chính là bước nhảy về tải trọng thêm 2.000 tấn, sử dụng cỡ pháo lớn hơn BL 343 mm (13,5 inch) và việc bố trí toàn bộ dàn pháo chính trên trục dọc giữa tàu. Orion đi vào hoạt động chỉ sau Dreadnought 4 năm, nhưng tải trọng đã tăng thêm 25%, còn uy lực pháo bắn qua mạn đã mạnh gấp đôi.[124]

Các siêu-dreadnought của Anh được các nước khác tiếp bước. Lớp New York của Hải quân Mỹ được đặt lườn vào năm 1911 và mang pháo 356 mm (14 inch) nhằm đáp trả lại động thái của Anh, và cỡ nòng pháo này trở thành tiêu chuẩn. Tại Nhật Bản, hai chiếc siêu-dreadnought thuộc lớp Fuso được đặt lườn vào năm 1912, và được tiếp nối bởi hai chiếc Ise vào năm 1914; tất cả đều được trang bị mười hai pháo 356 mm (14 inch). Năm 1917, lớp Nagato được đặt hàng, đây là những chiếc dreadnought đầu tiên được trang bị pháo 406 mm (16 inch), làm cho chúng trở thành những tàu chiến mạnh nhất thế giới. Tất cả dần dần được chế tạo toàn bộ tại Nhật Bản thay cho việc phải nhập khẩu các linh kiện từ nước ngoài. Tại Pháp, lớp Courbet được tiếp nối bởi ba chiếc siêu-dreadnought thuộc lớp Bretagne mang cỡ pháo 340 mm (13,4 in); rồi thêm năm chiếc lớp Normandie nhưng bị hủy bỏ do việc Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra.[125]

Các siêu-dreadnought của Anh sau này, chủ yếu là lớp Queen Elizabeth, loại bỏ bớt một tháp pháo, dành chỗ và trọng lượng cho những nồi hơi đốt dầu lớn hơn. Kiểu pháo mới BL 381 mm (15 inch) có hỏa lực mạnh hơn bù lại việc mất một tháp pháo, và nó cũng có đai giáp dày hơn cũng như cải thiện việc bảo vệ dưới nước. Lớp tàu này có tốc độ thiết kế 46 km/h (25 knot), và được xem là những thiết giáp hạm nhanh đầu tiên.[126]

Phần đuôi của chiếc siêu-dreadnought đầu tiên của Hoa Kỳ, Nevada, trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất

Điểm yếu trong thiết kế của siêu-dreadnought, vốn phân biệt chúng với những thiết kế sau Thế Chiến I, là sự phân bố vỏ giáp. Thiết kế của siêu-dreadnought nhấn mạnh đến việc bảo vệ tầm ngang cần thiết trong các trận chiến ở tầm ngắn. Những con tàu này có thể tiếp chiến với đối phương ở khoảng cách 18 km (20.000 yard), nhưng tỏ ra mong manh trước những quả đạn pháo bắn tới ở góc cao từ cự ly đó. Các thiết kế tiêu biểu sau chiến tranh thường dành lớp vỏ giáp sàn tàu dày 130–150 mm (5-6 inch) để khắc phục điểm yếu trên. Khái niệm về vùng miễn nhiễm trở thành một phần quan trọng trong thiết kế thiết giáp hạm. Việc thiếu sót một sự bảo vệ dưới nước cũng là một điểm yếu của những thiết kế trước Thế Chiến I vốn chỉ phát sinh khi mối đe dọa của ngư lôi trở thành hiện thực.[127]

Kiểu thiết giáp hạm "tiêu chuẩn" của Hải quân Hoa Kỳ, bắt đầu với lớp Nevada, được thiết kế với những tính toán để đối đầu ở tầm xa và chịu đựng những quả đạn pháo bắn tới ở khoảng cách này, được đặt lườn lần đầu tiên vào năm 1912, bốn năm trước khi trận Jutland có thể dạy được điều gì cho hải quân các nước châu Âu về mối nguy hiểm của tác chiến ở tầm xa. Những đặc tính quan trọng của kiểu thiết giáp hạm "tiêu chuẩn" là nguyên tắc "Tất cả hoặc không có gì" của vỏ giáp cùng việc cấu trúc kiểu "bè", một triết lý mà theo đó chỉ những phần của con tàu đáng được bảo vệ mới đáng được bọc giáp, và cần có đủ độ nổi dự trữ chứa trong một "bè" bọc thép để có thể giữ nổi cho toàn thể con tàu trong trường hợp phần mũi hoặc đuôi tàu không bọc thép có thể bị bắn thủng hoàn toàn và ngập nước. Thiết kế này chỉ được chứng minh trong chiến đấu ở trận Hải chiến Guadalcanal trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, khi một cú bẻ lái cơ động không đúng lúc đã khiến cho USS South Dakota hiện ra rõ ràng trước các họng pháo Nhật Bản. Mặc dù bị bắn trúng 26 phát pháo hạng nặng, "bè bọc thép" của nó đã vô hại và nó tiếp tục nổi và tiếp tục hoạt động sau khi kết thúc trận đánh.[128]